Muốn trả lời câu hỏi trên chúng ta có thể xét theo nhiều phương thức. Trước hết hãy theo chân các nhà xã hội học xét qua ba mấu chốt trong việc trao đổi, tức BA GIAI TẦNG THÔNG GIAO, là: đàn bà, khí dụng và văn tự (dans toute société communcation s’opère au moins à trois niveaux:
- Communication des femmes
- Communication des biens et des services
- Communication des messages)
1. Đàn bà
Trong ba tiêu mục thì đàn bà là giai tầng cao nhất, nổi nhất vì hai điểm kia thuộc về vật thể, còn đây thuộc nhân vị. Nó còn biểu lộ trình độ văn minh cao hơn. Truyền thuyết cho rằng Hoàng Đế đã cưới vợ Thục Sơn cho con là Chiêm Ích (chữ hán) (Chan-Yi) đẻ ra con đầu lòng là Đế Cốc (B.C 2435-2369). (Wiens 56) Con của Chiêm Ích cũng lấy vợ Thục Sơn đẻ ra Chuyên Húc sau làm vua nước Kinh Man (Sở). Phải coi vụ này là một huyền sử vì còn xảy ra rất nhiều lần. Đế Minh tuần thú phương Nam lấy Vụ Tiên, Mục Vương xuống Nam lấy Thịnh Cơ. Còn việc Triệu Đà lấy vợ Việt và cổ động cho quan quân lấy từng vạn vợ Việt thì đã thuộc lịch sử rồi. Theo huyền sử thì như trên đã nói lấy vợ đâu thì đấy kể là có văn minh cao hơn. Vua rợ Hồ lấy được Chiêu Quân thì thỏa mãn hơn vì coi là cao trọng hơn. Vua Chàm lấy được Huyền Trân công chúa cũng coi là việc trọng, có đổi đất cũng đáng giá. Sự kiện đó biểu lộ sự hùng mạnh, văn hóa cao hơn. Vậy vợ Thục Sơn có thể là một biểu lộ nền văn hóa Thục Sơn cao hơn. Truyền thuyết nói rằng một trong Tam Hoàng là Nhân Hoàng đã chia nước ra chín châu và đóng đô ở
Trung cung còn các anh em cai trị xung quanh. Trung cung được đoán là Ba Thục vẫn được kể là chúa trùm ở miền Nam và văn hóa được cho là đã đạt độ cao rất sớm. (Wiens 56) Vì số 9 là yếu tố quan trọng chứng tỏ văn hóa Nho giáo đã đạt đến cơ cấu cho nên nói Nhân Hoàng chia nước ra 9 châu thì có nghĩa là Ba Thục đã đạt đợt cao trứơc Hoàng Hà. Cũng phải nói như thế về Kinh Dịch, vì Kinh Dịch đi với Nhân Hoàng tức Phục Hy. Vì thế ta có thể kết luận lấy vợ Thục Sơn biểu lộ sự truy nhận văn hóa Thục Sơn cao hơn. Thực ra việc lấy vợ còn một ý nghĩa khác thuộc chính trị, coi đó như con đường xâm nhập chiếm đoạt. Gả Huyền Trân cho vua Chàm là cốt mở thêm đất vào hai châu Ô Ri. Đế Minh lấy Vụ Tiên để làm vua Ngũ Lĩnh. Triệu Đà lấy vợ Việt để đặt cơ sở chính trị vững hơn. Trong chiều hướng này tên Chiêm Ích có thể là một khẩu hiệu: Chiêm có nghĩa thấm nhập, còn Ích là lần lần. Và khẩu hiệu này đã được hiện thực. Tuy vậy mục tiêu chính trị không đi ngược yếu tố văn hóa, hơn thế nữa còn có thể kiện chứng ở chỗ là người ta chỉ dùng việc lấy vợ làm lối đi cho chính trị là khi bên vợ vì lý do văn hóa hay kinh tế phải hơn hay ít ra ngang bằng, vì nếu sút hơn thì không giấu được mưu lược. Vì thế việc các vua Bắc phương lấy vợ Nam phương cũng là một lý do để người ta nghĩ rằng văn hóa phương Nam đã đi trước trong lúc ấy. Triệu Đà sinh quán tại nước Lỗ, tổ của văn hóa Hán thế mà khi làm vua tại Nam Việt thì từ bỏ thói tục Bắc Phương để sống theo phong tục Nam Việt. (Wiens 136) Lấy vợ Việt thì phải có lý do gì. Giả sử một toàn quyền Pháp lấy vợ Việt rồi ăn trầu để búi tóc, dùng toàn người Việt thì sẽ thấy rõ. Thường người ta cho đó là ngón đòn ngoại giao, nhưng ngoại gia chỉ có giới hạn, ngoài ra phải có trình độ văn hóa cao, nếu không hơn thì phải có một số nét nào đó đáng chấp nhận không những cho mình mà còn cho cả đoàn tuỳ tòng của mình, như Triệu Đà không những lấy vợ Việt mà còn tích cực cổ động cho quân đội Tàu lấy gái Việt. Đọc lịch sử thế giới ta thấy một trường hợp khác đó là Alexandre Đại Đế đã từ lâu bỏ dần lối sống Hy Lạp để thâu hóa lối sống của Ba Tư. Sự thay đổi này phải giải nghĩa phần lớn bằng sự trội hơn của nền văn hóa sở tại, ít ra đối với ý nghĩ người chấp nhận là Alexandre, là Triệu Đà. Sự kiện này xảy ra nhiều lần trên mảnh đất Viễn Đông nơi mà nhà cai trị lại chấp nhận văn hóa của người bị trị như trường hợp Mông Mãn. (Wiens 81) Những sự kiện này rất đáng chú ý vì nó đưa ta đến một sự kiện khác lớn lao hơn là các đợt xâm lăng đều bị văn hóa người Tàu cải hóa. Ở nơi khác thì nhà cai trị chuyển hóa người bị trị, ở đây thì người bị trị chuyển hóa nhà cai trị. Đó là một hiện tượng có thể chứng minh cho sự trổi vượt về văn hóa của Phương Nam.
2. Khí dụng
Từ hơn một thế kỷ nay thì khí dụng đã trở thành tiêu chuẩn để ghi mốc văn minh làm ra nhữhg chặng cổ thạch rồi tân thạch, và sau đó đến đồ đồng đen… Đồ đồng xuất hiện ở đâu trước thì đấy cũng là dấu hiệu văn hóa. Vậy mà các nhà nghiên cứu cho rằng đồ đồng xuất hiện ở phương Nam trứơc và người ta thường lấy trống đồng làm tang vật. “The Thai developed a bronze culture before the northerners did.” (Wiens 131) Trong Thiên Vũ Cống có nó đến đồng bằng Dương Tử như là miền cung cấp đồng duy nhất mà người Hán tộc biết đến. Từ Tùng Thạch cho rằng trống đồng được sáng tạo do dân Lĩnh Nam tên là Xung (chữ hán) (chữ này có thấy trong tự vị Khang Hy) đó là một tên khác để gọi Thái sống trong tỉnh Quảng Đông Quảng Tây. Trống gặp được ở các nơi khác (mạn Bắc) đều bé hơn và mới hơn. (Wiens 131). Tằm tang Nghề dệt cũng như cao hơn một độ là nghề tằm tang chứng tỏ một bước khá cao của văn minh. Vậy câu hỏi nghề tằm tang do đâu? Eicksted gắn liền miền Bắc với lúa mạch, đoàn cừu, chiên và vách đất với dâu và lụa, tác giả không có ý chủ trương là nghề tằm tang xuất phát từ miền Bắc, nhưng chỉ nhận xét là có nhiều. Hình như chưa có học giả nào chủ trương phương Bắc là nơi phát xuất của tằm tang. Trái lại nếu căn cứ theo dạng tự và huyền thoại thì có thể kết luận do miền Nam. Vì chữ Man (chữ hán) chỉ toàn dân miền Nam kép bởi bộ trùng (chữ hán), nhiều học giả cho là do nghề nuôi tằm (trùng) mà viết với bộ trùng như vậy, và chữ trùng này thêm vào là do miền Nam chứ trước kia miền Bắc không viết với bộ trùng. (Wiens 35) Trong quyển “Việt giang lưu vực nhân dân” ông Từ Thục Thạch kê khai ra bốn nét văn hóa của Thục Sơn thì nét 2 là sản xuất ra tằm tang (Wiens 60). Huyền sử nói Phục Hy đã lập ra phép cấy dâu nuôi tằm, vì thế sách Hoàng Đế nội kinh nói khi Hoàng Đế chặt đầu Si Vưu rồi thì thần tằm tang dâng lụa cho ông. Vậy là nghề dệt cũng như nghề tằm tang hầu chắc phát xuất ở Thục Sơn trước.
3. Văn tự
Bây giờ nói đến văn tự cũng là nói đến yếu tố tập trung văn hóa hơn hết, ai nắm được thì nhất định thắng. Đó là một điều thật ở bất cứ đâu huống chi đối với Viễn Đông thì chữ Nho có một sức thôi miên kỳ lạ như nhiều học giả nhận xét. Cho nên về các đời sau Hán tộc đã thắng thế thì các nhà nghiên cứu (Wiens 121) cho là “nhờ chữ Nho”, vì cùng một chữ viết mà mỗi miền nói tiếng khác vẫn đọc và hiểu được, dụng cụ viết lại là những vật quanh mình dễ kiếm, thế mà lại chở theo một nền triết lý sâu xa với những văn thơ sáng lạn đầy sức hấp dẫn. Sức hấp dẫn đó không nuốt trôi cách tàn bạo nhưng lôi kéo “nạn nhân” bằng sức thôi miên… Chính nhờ đó mà văn hóa Hán tộc đã có một tiềm lực hồi sinh và bền vững vô địch. Ông Eicksted cho đó là nền văn hóa mạnh nhất mà thế giới thấy được, đến nỗi nó cứ tiến dần một cách quyết liệt nhưng êm đềm và phần lớn cách kín đáo ngấm ngầm (Wiens 121). Vậy bây giờ ta hỏi Bắc hay Nam đã tìm ra chữ trước? Nếu kể từ đời Thương trở xuống thì rõ ràng là của phương Bắc. Nhưng trước nữa thì chỉ còn có huyền thoại. Và tuy huyền thoại cho là công của Hoàng Đế nhưng huyền thoại còn thêm là Hoàng Đế giao cho Thương Hiệt trông coi. Nhưng cũng theo huyền thoại thì trước đó còn một đợt văn tự manh nha gọi là kết thằng gắn liền với việc sáng tác Kinh Dịch là do Nhân Hoàng thuộc Thục Sơn. Vì thế khởi nguyên chữ viết phải là do phương Nam, không những thế phương Nam còn tiến thêm một đợt nữa là đợt viết chữ theo dấu “chân chim”. Chim là vật biểu của Viêm Việt nên chữ theo lối chân chim có thể giải nghĩa là chữ theo văn hóa của những người có vật biểu chim. Vì thế khi Hoàng Đế cướp được chính quyền của Si Vưu thì trao cho nhân tài miền có vật biểu chim để hoàn bị chữ viết và người đó gọi là Thương Hiệt. Hiệt là chim bay cao. Thương là phương Đông. Hai chữ ấy có thể bao hàm ý nghĩa là người hoàn thành chữ viết thuộc văn minh Đông Nam. Đó chỉ là lấy đại cương mà bàn. Vì khó còn thể biết đích xác hơn. Nhưng ta có thể nghĩ rằng ở phương Nam đã có rất nhiều người thử lập ra chữ Nho do ý chí muốn vượt qua lối chữ kết thằng quá nghèo nàn về khả năng ghi chép. Vì thế ở nhiều thị tộc chắc có những thử thách, những lối văn tự ít nhất ở độ thai nghén. Công của Hoàng Đế cũng như sau này của Tần Thuỷ Hoàng chỉ là “thống nhất” văn tự tức là bắt theo một lối nào nhất định. Rồi nhờ nắm được chính quyền nên cũng nắm luôn được quyền văn tự, tức là thâu vào tay mình tất cả công lao sáng tạo của rất nhiều người (rất nhiều dân gian như việc tác sách) nhưng trước kia còn nằm tản mác. Cho nên khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất văn tự thì nhiều nơi ở miền Nam chống lại bằng “duy trì” chữ của riêng nước mình. Hầu chắc chữ Nôm ta nằm trong trường hợp ấy, nó có nghĩa là “chữ Nam” đọc trại ra Nôm. Đọc trại vì trong Kinh Thi rất nhiều chữ Nam phải đọc là Nâm cho hợp vận. Như thế chữ Nôm đã có lâu đời. Người ta nhận ra dấu vết đời Nhân Diên, Sĩ Nhiếp, nhưng có thể đoán còn trên nữa. Sau này gần một ngàn năm Bắc thuộc quên đi, khi độc lập mới làm sống lại nên đã có quá nhiều đổi thay do quên sót cũng như do các biến chuyển khác, nên không lấy lại được chính chữ Việt xưa. Bây giờ xét gồm cả ba giai tầng thông giao thì ta thấy rất có thể kết luận là Thục Sơn đã đặt viên đá đầu tiên trước Hoàng Hà. Chính ông Từ Tùng Thạch cũng phải nhận rằng rất có thể Hoàng Hà là cái chồi của gốc Thục Sơn. “Hanam Yellow River culture may be an offshoot of the Shu shan culture”. (Wiens 60) Kết luận như thế rất hợp hoàn cảnh tức là nước Tàu Hán lúc đó chỉ là một mảnh đất nhỏ xíu bên cạnh những trung tâm văn hóa khác có thể là 8 hay 6 tuỳ lối chia nhưng chiếm hầu trọn nước Tàu “There remains only a minimal region in which could be inserted a compact Han Coinese settlement” (Wiens 44). Như thế việc coi Nho giáo là của Tàu chỉ là thói quen thường nghiệm thiếu nghiên cứu tận tường, còn khi nghiên cứu nghiêm chỉnh thì nhiều học giả cho là Thục Sơn có thể đi trước, ngay trong một số học giả Trung Hoa đã bác ý đó như ông Từ Tùng Thạch cũng có lúc cho là Hoàng Hà có thể chỉ là chi nhánh của Thục Sơn!
Hỏi rằng văn hóa Hoàng Hà có phải là chi nhánh suông hay là một hiện tượng hai văn hóa lồng lên nhau “superimposition” như ông Eberhard nói (Wiens 44) và ông nghiêng về hiện tượng lồng lên để giải nghĩa sự kiện văn hóa Hoàng Hà có sức mạnh ghê gớm chinh phục toàn cõi nước Trung Hoa như nay là do có nền tảng văn hóa Thục Sơn đã lồng lên trên đem lại cho nó một nguồn sức mạnh rất êm thắm. Mà chính vì êm thắm nên càng hiệu nghiệm. Chúng tôi chủ trương hiện tượng lồng: trống lồng lên gươm, tức văn hóa nông nghiệp biểu thị bằng trống đồng lồng lên văn hóa du mục biểu thị bằng gươm, và sự lồng này được coi như đỉnh cao chót vót của văn hóa, nói bóng là sự đúc đỉnh. Ai đúc được 9 đỉnh thì được thiên mệnh, có nghĩa là ai nắm vững được sự hoà hợp hai nền văn hóa thì làm vua như sẽ nói về ông Đại Vũ đúc cửu đỉnh. Về việc hai nền văn hóa lồng lên nhau là một hiện tượng thông thường trong dĩ vãng như văn hóa Aryen lồng lên văn hóa Dravidien, văn hóa Roma nhóm Indo europeeme của Romulus hiếu chiến lồng lên văn hóa của nhóm dân Sabin nông nghiệp. Chúng tôi đã nói đến trong Việt Lý và trong Triết lý cái đình. Sự kiện hai nền văn hóa lồng lên nhau tuy có thể nói là rất thường vì tìm thấy hầu khắp nơi, nhưng ở đây có một nét đặc trưng là thay vì gươm lồng lên trống thì chính lại là trống lồng lên gươm, bánh dầy trên bánh chưng, tức là văn hóa nông nghiệp vượt trên văn hóa du mục. Chữ du mục ở đây phải hiểu là đợt cơ cấu tức là đã có từ lâu đời và còn để ấn tích lại mặc dù về sau Hoa tộc không còn ở trong tình trạng du mục nữa. Ấn tích du mục được biểu thị bằng độc tôn người cầm đầu, vì tất cả dựa trên sức mạnh để săn hái, rồi sau để chiếm đồng cỏ. Muốn mạnh thì mọi phần tử phải trọn vẹn phục tùng cấp trên. Cho nên trong quân đội không thể có dân chủ mà chỉ có kỷ luật “nhà binh” nghĩa là kỷ luật sắt. Trạng thái du mục cũng là một đoàn quân luôn luôn di chuyển nên chú ý đặt trọn vào nhà lãnh đạo, và do đó nhiều khi dùng tên nhà lãnh đạo để chỉ dòng tộc: người Tàu xưa xưng mình là Hoàng Nhơn (con của Hoàng Đế). Đến đời nhà Hán xưng là Hán Nhơn. Đến đời Đường nhiều nơi xưng là Đường Nhơn… thì do ấn tích của đời du mục để lại. Ngược lại phương Nam hay chú ý đến đất và những phát minh, như các tên Miêu (chữ hán) là người có ruộng Việt (chữ hán) là người có gạo (mễ) Dư (chữ hán) là ruộng đã thuần thục (đã võ ba năm) Khương (chữ hán) người nuôi dê bò… Tên họ là tên người mẹ, cũng chính là tên đất. Hầu hết các dân mạn Nam đều gọi là Man về sau đọc trại ra Môn như Mon Khmer, có liên hệ đến tằm tang. Hai tên Mỵ Châu rất có thể là do đọc trại tiếng Mễ nghĩa là gạo (gốc chữ Việt). Mấy chữ trên: gạo, ruộng, tầm… đều khởi hứng từ nghề nghiệp, cả đến tên Viêm cũng là do lối làm ruộng bằng đốt rẫy… hay do phát minh lửa, tất cả đều nói lên khuynh hướng trọng tài đức ngược với lối đề cao thủ lãnh thuộc du mục thịnh ở miền Tây Bắc. Do đấy mà có nhiều hậu quả rất sâu xa, thí dụ nếu là trọng tài đức thì mục đích của chính quyền là mưu hạnh phúc âm no cho toàn dân, còn khi suy tôn thủ lãnh thì mục đích của chính quyền là mưu tìm sự hùng cường cho “nước”. Nói là nước mà thật sự là vua, là uy quyền của vua, nên công quỹ bi nuốt trôi hầu hết vào quân sự hay là xây đắp cung điện. Cao Miên trung cổ với những đền đài nguy nga như Đế Thiên là một thí dụ rõ nhất về lối suy tôn nhà cầm quyền. Tần Thuỷ Hoàng xây vô vàn cung điện cũng nằm trong lối chính trị đề cao uy thế. Lối này gây ra hai đẳng cấp rõ rệt trong nước: một bên cai trị, một bên bị trị. Giáo sư Wiens (48) nhận xét rằng: “kinh tế miền đồng bằng Bắc Nam không khác nhau về sản phẩm nhưng có khác nhau về xã hội, tức phía Nam không có sự chia hai giữa nhà cai trị một bên và người bị trị bên kia “but differences in sociological development did not bring social dichotomy between the ruling chieftains and their people in the south as it did in the north, where a noble or ruling classe evolved with a consequent higher degree of urbanization of the populace” (Wiens 48). Vì sự phân chia trên mà nảy sinh một hậu quả khác về văn hóa đó là văn hóa bao giờ cũng có sự phong phú và nhất là hợp tình người về phía trọng tài đức; còn những xã hội độc tôn thủ lãnh thì triết lý rất nghèo nàn, như ta có thể quan sát dễ dàng ở những tổ chức mạnh. Những tổ chức này thiên hẳn về lối tổ chức xã hội lý, thiên trọng võ lực hoặc quyền uy, nên rất kém về đạo lý nhất thứ là Đạo Nho, là đạo lý dạy lấy nhu thắng cương. Vì thế mà Nho đạo cũng chính là Nhu đạo khó có thể được khởi sáng do xã hội lý ưa quyền lực như nhóm Hoa tộc. Sở dĩ người ta không nhận ra điều đó vì văn hóa nông nghiệp đã sớm lồng lên văn hóa du mục, đến nỗi hầu như mối hàn xì biến mất và cũng chính vì thế mà yếu tố này đã giúp vào việc giải đáp thắc mắc tại sao Hán tộc không khởi sáng ra văn hóa mà lại nhờ văn hóa mà thắng các nước khác? Chúng ta nên nhớ biểu tượng hòa hợp đúc kết hai văn hóa gọi là đúc cửu đỉnh, và cửu đỉnh hay bị chìm xuống sông. Sông là nước, là thuỷ, mà hành thuỷ thuộc phương Bắc, nên dễ để cho văn hóa du mục (tức bá đạo) tràn ngập thì là làm chìm cửu đỉnh. Ai vớt lên được thì sẽ được thiên mệnh. Có nghĩa là quyền bính sẽ thuộc về người nào hoà hợp được sức mạnh phương Bắc với nhân ái phương Nam, cho nhân ái bao trùm sức mạnh, cho tròn bao bọc vuông, thì đôi bên bác (Bắc) mẹ (Nam) bằng lòng tức chấp nhận. Chính vì Viêm Việt đã có nhiều dân ở lại miền Bắc nên ảnh hưởng nông nghiệp đã trổi vượt, đem lại cho Hán tộc sự thắng thế ngay trong phạm vi văn hóa, cho nên khi nghiên cứu lại nguồn gốc thì học giả nào cũng phải thắc mắc tự hỏi tại sao một nhóm nhỏ như Hán tộc lại có thể thắng được rất nhiều nhóm người khác?
(trích sách TRIẾT LÝ CÁI ĐÌNH@KIM ĐỊNH)